Ngành công nghiệp này rất nhỏ, nhưng đối với Tokyo, nó lại là một phần của bức tranh lớn hơn nhiều.
TAIJI, Japan — Fishermen in the village of Taiji are counting the days until July, when they will be able to hunt large, fatty Minke whales commercially for the first time in decades.
Ngư dân ở làng Taiji đang đếm ngày cho đến tháng 7, khi họ sẽ có thể săn những con cá voi Minke lớn, béo ngậy cho mục đích thương mại lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ.
The community, which faces the Pacific coast of central Japan, is still haunted by its moment in the international spotlight 10 years ago, when the documentary “The Cove” criticized its dolphin culls and attracted a flood of activists. Yet, a sense of optimism is spreading.
Cộng đồng [ở làng Taiji], nằm ngay sát bờ biển Thái Bình Dương của miền trung Nhật Bản, vẫn bị ám ảnh bởi khoảnh khắc họ là trong tiêu điểm quốc tế 10 năm trước, khi bộ phim tài liệu “The Cove” chỉ trích những việc dân làng sát hại những con cá heo và thu hút sự chú ý của rất nhiều các nhà hoạt động. Tuy nhiên, một cảm giác lạc quan đang lan rộng [trong ngôi làng].
“The availability of more types of whales will make more people interested” in eating the meat, predicted Shinichi Shiozaki, who sells processed whale products. “It’s a good thing.”
“Sự sẵn có của nhiều loại cá voi sẽ khiến nhiều người thích thú hơn” khi ăn thịt, theo ông Shinichi Shiozaki, người bán các sản phẩm cá voi chế biến. “Đó là một điều tốt.”
Until now, Japan has been catching Minkes only for “research purposes” under its scientific whaling program. But last December, the government announced its withdrawal from the International Whaling Commission, meaning whalers will no longer be subject to prohibitions on catching certain species. It will be open season in Japanese waters and the country’s exclusiveeconomic zone.
Cho đến thời điểm hiện tại, Nhật Bản đã chỉ bắt cá voi Minke cho “mục đích nghiên cứu” theo chương trình săn bắt cá voi khoa học. Nhưng vào tháng 12 vừa qua, chính phủ Nhật đã tuyên bố rút khỏi Ủy ban Cá voi Quốc tế, có nghĩa là những người săn cá voi sẽ không còn bị cấm bắt một số loài nhất định. Việc đánh bắt này sẽ được cho phép ở các vùng biển Nhật Bản và vùng đặc quyền kinh tế của nước này.
Abandoning a widely accepted international framework never looks good — particularly not when it relates to an issue as sensitive as whale conservation. So why did Tokyo stick its neck out to defend an industry that barely registers economically?
Việc từ bỏ một khuôn khổ quốc tế được chấp nhận rộng rãi không bao giờ là điều tốt đẹp – đặc biệt là khi nó liên quan đến một vấn đề nhạy cảm như bảo tồn cá voi. Vậy tại sao Tokyo lại liều lĩnh bảo vệ một ngành công nghiệp hầu như không mang lại giá trị kinh tế?
Taiji, which has historically depended on whaling, is home to about 3,000 people. Cetaceans, including dolphins, accounted for roughly 20% of the village’s fishing volume in 2015. The villagers currently catch species that are not protected under IWC rules, such as pilot whales, using one medium-size vessel and numerous small boats.
Taiji, ngôi làng có lịch sử phụ thuộc vào việc săn bắt cá voi, là nhà của khoảng 3.000 người. Các loài động vật có vú sống dưới biển, bao gồm cả cá heo, chiếm khoảng 20% sản lượng đánh bắt của làng này vào năm 2015. Dân làng hiện bắt những loài không được bảo vệ theo quy định của IWC, như cá voi đầu tròn, sử dụng một tàu cỡ trung bình và nhiều thuyền nhỏ.
“The sea is where people find jobs,” said Yoshifumi Kai, councilor of the local fisheries association, noting the village is nearly surrounded by water and is ill-suitedto agriculture.
“Biển là nơi mọi người tìm được việc làm”, theo ông Yoshifumi Kai, ủy viên hội đồng nghề cá địa phương, lưu ý rằng ngôi làng gần như bị bao quanh bởi biển và không phù hợp với nông nghiệp.
But there are only five medium-size whaling boats operating in all of Japan, along with one large vessel and three catcher boats that accompany it. The total whaling crew count is under 200, according to Japan’s Fisheries Agency.
Nhưng chỉ có 5 tàu săn cá voi cỡ trung bình hoạt động trên khắp Nhật Bản, cùng với 1 tàu lớn và 3 tàu đánh bắt đi cùng. Tổng số đội đánh bắt cá voi là dưới 200 tàu, theo Cơ quan Thủy sản Nhật Bản.
Even if those who cut up and process whales are included, very few Japanese livelihoods truly depend on whaling.
Và ngày nay cũng không có nhiều người Nhật ăn thịt cá voi nữa.
Annual consumption stood at around 3,000 to 5,000 tons in the past few years, far below the 200,000 tons recorded in the 1960s. The meat may induce nostalgia among older generations — it used to be a staple of school lunches, thanks to its high nutrition and relatively low cost — but today demand is limited.
Mức tiêu thụ hàng năm trong vài năm qua ở mức khoảng 3.000 đến 5.000 tấn, thấp hơn nhiều so với con số 200.000 tấn được ghi nhận trong những năm 1960. Món thịt này có thể là nỗi hoài cổ của các thế hệ cũ – nó từng là một món ăn chính của bữa trưa ở trường, nhờ dinh dưỡng cao và chi phí tương đối thấp – nhưng nhu cầu ngày nay rất hạn chế.
Stores, meanwhile, have faced international pressure to take whale off their shelves. Back in 2003, top retailer Aeon agreed with the Environmental Investigation Agency, a U.K. nongovernmental organization, to cap the number of locations that sell the meat.
Các cửa hàng, trong khi đó, đã phải đối mặt với áp lực quốc tế khi đưa thị cá voi lên kệ hàng của họ. Trở lại năm 2003, nhà bán lẻ hàng đầu Aeon đã đồng ý với Cơ quan điều tra môi trường, một tổ chức phi chính phủ của Hoa Kỳ, giới hạn số lượng địa điểm bán thịt cá voi.
At first glance, Japan is tarnishing its global reputation to sustain a minor business with questionable prospects.
Thoạt nhìn, Nhật Bản đang làm mờ danh tiếng toàn cầu của mình để duy trì một doanh nghiệp nhỏ với triển vọng không rõ ràng.
“Japan will now join Norway and Iceland as rogue outlaw whaling nations in the North Pacific and the North Atlantic,” Linda Gonzales, campaign coordinator of the anti-whaling organization Sea Shepherd, said after the IWC withdrawal announcement.
“Nhật Bản sẽ gia nhập Na Uy và Iceland với tư cách là những quốc gia săn bắt cá voi ngoài vòng pháp luật ở Bắc Thái Bình Dương và Bắc Đại Tây Dương”, theo Linda Gonzales, điều phối viên chiến dịch của tổ chức chống săn bắt cá voi Sea Shepherd, cho biết sau thông báo [Nhật Bản] rút khỏi của IWC.
Still, from the government’s perspective it was now or never, and whaling is part of a much bigger picture.
Ngành công nghiệp này đứng trênbờ vực sụp đổ vào năm ngoái, theo những người trong cuộc và các chuyên gia.
Sheer cost was one problem. Japan’s large whaling ship has been sailing into Antarctic waters, where whales are relatively abundant. But the voyages are expensive, and the vessel is over 30 years old.
Các chi phí cố định là một vấn đề. Tàu săn cá voi lớn của Nhật Bản đã đi tới các vùng biển Nam Cực, nơi có tương đối nhiều cá voi. Nhưng các chuyến đi rất tốn kém, và các con tàu đã hơn 30 tuổi.
The Japan Whaling Association says renewing the ships, which is large enough to dismantle and store whales on board, would cost about 10 billion yen ($91.3 million) — a huge investment in a business with no clear future.
Hiệp hội Cá voi Nhật Bản cho biết việc làm mới các con tàu, đủ lớn để tháo dỡ và trữ cá voi trên tàu, sẽ tốn khoảng 10 tỷ yên (91,3 triệu đô la) – một khoản đầu tư lớn vào một ngành kinh doanh không có tương lai rõ ràng.
It is cheaper to hunt commercially in Japan’s waters and the EEZ, compared with the Antarctic. Smaller vessels can be used for whaling close to home. It is also easier for Japan to claim it is entitled to hunt within its own maritime territory; the government has said whalers will stop hunting in the Southern Hemisphere.
Việc săn bắn thương mại trong vùng biển và vùng đặc quyền kinh tế của Nhật Bản sẽ rẻ hơn, so với ở Nam Cực. Các tàu nhỏ hơn có thể được sử dụng để đánh bắt cá gần bờ. Nhật Bản cũng dễ dàng hơn khi tuyên bố họ có quyền săn bắn trong lãnh thổ hàng hải của chính mình; chính phủ đã tuyên bố những người săn cá voi sẽ ngừng săn bắn ở Nam bán cầu.
On top of those considerations, Japan suffered two heavy blows at the IWC last September. At a meeting in Brazil, the commission adopted a declaration that it “reaffirms the importance in maintaining the moratoriumon commercial whaling.” This dashed Japan’s hopes that the moratorium was only temporary.
Bên cạnh những cân nhắc đó, Nhật Bản đã chịu hai đòn nặng nề tại IWC vào tháng 9 năm ngoái. Tại một cuộc họp ở Brazil, ủy ban đã thông qua một tuyên bố rằng họ “tái khẳng định tầm quan trọng trong việc duy trì lệnh cấmđối với đánh bắt cá voi thương mại”. Điều này dập tắt hy vọng của Nhật Bản rằng lệnh cấm này chỉ là tạm thời.
The whole point of Japan’s scientific whaling, according to the government, was to collect enough data so that whale stocks could be maintained without a complete ban.
Mục đích của việc săn bắt cá voi khoa học của Nhật Bản, theo chính phủ, là thu thập đủ dữ liệu để có thể duy trì trữ lượng cá voi mà không cần một lệnh cấm hoàn toàn.
A Japanese proposal to allow commercial whaling of relatively abundant species was also struck down, nudging Prime Minister Shinzo Abe closer to a grave decision.
Một đề xuất của Nhật Bản cho phép đánh bắt cá voi thương mại của các loài có số lượng tương đối phong phú cũng bị bác bỏ, buộc Thủ tướng Shinzo Abe phải tiến gần hơn tới một quyết định nghiêm trọng.
Even before the IWC rejection, representatives from the Fisheries Agency and the Ministry of Foreign Affairs had been scurrying around the Nagatacho political district in Tokyo, visiting members of Abe’s Liberal Democratic Party. “The proposal is likely to be rejected, so we will proceed with a withdrawal plan,” one government official told party members.
Ngay cả trước khi bị IWC từ chối, đại diện của Cơ quan Thủy sản và Bộ Ngoại giao đã xôn xao xung quanh khu chính trị Nagatacho ở Tokyo, đến thăm các thành viên của Đảng Dân chủ Tự do của ông Abe. “Đề xuất có khả năng bị từ chối, vì vậy chúng ta sẽ tiến hành kế hoạch rút khỏi [IWC]”, một quan chức chính phủ nói với các đảng viên.
The government’s insistence on whaling, though, is also its way of pushing back against a growing movement to restrict the use of marine resources in general.
Mặc dù vậy, sự khăng khăng của chính phủ Nhật đối với việc săn bắt cá voi cũng là cách họ chống lại một phong trào đang phát triển trong việc hạn chế việc sử dụng tài nguyên biển nói chung.
Japan’s position on whaling “is intended to be a sea wall” to prevent other bans on fishing, said Hideki Moronuki, director for fisheries negotiations at the Fisheries Agency. The world’s No. 3 economy still relies on fish for protein.
Ông Hideki Moronuki, giám đốc đàm phán nghề cá tại Cơ quan Thủy sản cho biết, quan điểm của Nhật Bản về đánh bắt cá voi “dự định là một bức tường biển” để ngăn chặn các lệnh cấm đánh bắt cá khác. Nền kinh tế số 3 thế giới vẫn dựa vào cá để lấy protein.
The agency was especially concerned that bowing to the IWC on whaling would undermine Japan’s similar position on tuna, one of the country’s most popular fish. Japan is often criticized for being the biggest consumer of bluefin tuna, identified as endangered by the International Union for Conservation of Nature. Tokyo made a proposal to increase its fishing quota for bluefin last year but was rejected by the Western and Central Pacific Fisheries Commission.
Cơ quan này đặc biệt lo ngại rằng việc cúi đầu trước IWC về việc săn bắt cá voi sẽ làm suy yếu quan điểm tương tự của Nhật Bản đối với cá ngừ, một trong những loài cá phổ biến nhất của đất nước. Nhật Bản thường bị chỉ trích là quốc gia tiêu thụ cá ngừ vây xanh lớn nhất, được xác định là có nguy cơ tuyệt chủng bởi Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế. Tokyo đã đưa ra một đề xuất tăng hạn ngạch đánh bắt cá cho bluefin vào năm ngoái nhưng đã bị Ủy ban Thủy sản Tây và Trung Thái Bình Dương từ chối.
“Sustainable fishing based on scientific evidence” is Japan’s official stance on ocean resource management, Moronuki said. But this does not resonate much with the international community.
“Đánh bắt cá bền vững dựa trên bằng chứng khoa học” là lập trường chính thức của Nhật Bản về quản lý tài nguyên đại dương, ông Moronuki nói. Nhưng điều này không đồng điệu với quan điểm của cộng đồng quốc tế.
exclusiveeconomic zone(EEZ): vùng đặc quyền kinh tế
stick one’s neck out (idiom): liều lĩnh
cetacean /sɪˈteɪ.ʃən/ (n): các loài động vật có vú sống dưới biển
councilor /ˈkɑʊn·sə·lər/ (n): ủy viên
fisheries (n): nghề cá
ill-suitedto (adj): không phù hợp với cái gì
livelihood /ˈlaɪv.li.hʊd/ (n): sinh kế
nostalgia /nɒsˈtæl.dʒə/ [C2] (n): niềm hoài cổ
cap /kæp/ (v): giới hạn
tarnish /ˈtɑː.nɪʃ/ (v): làm mờ
sustain /səˈsteɪn/ [C2] (v): duy trì
rogue /rəʊɡ/ (n): kẻ đểu cáng, kẻ lừa đảo
outlaw (adj): ngoài vòng pháp luật
on the verge of [C2] (pre): trên bờ vực
sheer cost (n): các chi phí cố định
dismantle /dɪˈsmæn.təl/ (v): tháo dỡ
entitled to do sth /ɪnˈtaɪ.təld/ (adj): có quyền làm gì
blow /bləʊ/ (n): đòn đánh, cú giáng
moratoriumon sth /ˌmɒr.əˈtɔː.ri.əm/ (n): lệnh cấm đối với điều gì trong một khoảng thời gian nhất định
dashone’shopes (idiom): dập tắt hy vọng của ai đó
strike down (v): bác bỏ
nudge /nʌdʒ/ (v, n): cú hích
scurry /ˈskʌr.i/ (v): nhốn nháo
bow to sb/sth (v): cúi đầu trước ai/cái gì
undermine /ˌʌn.dəˈmaɪn/ [C2] (v): làm suy yếu
quota /ˈkwəʊ.tə/ (n): hạn ngạch
sustainable [C1] /səˈsteɪ.nə.bəl/ (n): bền vững
stance /stɑːns/ [C2] (n): lập trường
resonatewith /ˈrez.ən.eɪt/ (v): đồng điệu với (quan điểm)
ỦNG HỘ READ TO LEAD!
Chào bạn! Có thể bạn chưa biết, Read to Lead là một trang giáo dục phi lợi nhuận với mục đích góp phần phát triển cộng đồng người học tiếng Anh tại Việt Nam. Chúng tôi không yêu cầu người đọc phải trả bất kỳ chi phí nào để sử dụng các sản phẩm chất lượng của mình để mọi người đều có cơ hội học tập tốt hơn. Tuy nhiên, nếu bạn có thể, chúng tôi mong nhận được sự hỗ trợ tài chính từ bạn để duy trì hoạt động của trang và phát triển các sản phẩm mới.
Bạn có thể ủng hộ chúng tôi qua 1 trong 2 cách dưới đây. – Cách 1: Chuyển tiền qua tài khoản Momo. Số điện thoại 0886.630.599 (Chủ tài khoản: Nguyễn Thị Phương Thảo) Nội dung chuyển tiền: Ủng hộ Read to Lead hoặc – Cách 2: Chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng. Ngân hàng VIB chi nhánh Hải Phòng Số tài khoản: 071704060005623 (Chủ tài khoản: Nguyễn Thị Phương Thảo)
Nội dung chuyển tiền: Ủng hộ Read to Lead